Tin nóng
Thông tin cơ bản về Thụy Sĩ và quan hệ Việt Nam - Thụy Sĩ
Ngày: 15.03.2019

I. THÔNG TIN CƠ BẢN: 

Tên nước: LIÊN BANG THỤY SĨ (The Confederation of Switzerland); Thủ đô: Bern (Bơn); Quốc khánh: Ngày 01 tháng 8; Vị trí địa lý: Nằm ở Trung Âu (Phía Bắc giáp Đức, Nam giáp Ý, Tây giáp Pháp, Đông giáp Áo và Lích-then-xờ-tai-nờ); Diện tích: 41.290 km2; Khí hậu: Ôn đới, nhiệt độ trung bình 12oC; Dân số: 7,8 triệu người; Dân tộc: Do hoàn cảnh lịch sử, Thụy Sĩ không có ngôn ngữ riêng, mà gồm 4 cộng đồng dân cư nói 4 ngôn ngữ khác nhau. Cộng đồng nói tiếng Đức chiếm 2/3 dân số, sống ở miền Đông (vùng Luzern, Zurich, Basel …), giáp Đức và Áo. Cộng đồng nói tiếng Pháp chiếm 1/3 dân số, sống chủ yếu ở phía Tây Thụy Sĩ (vùng Lausanne và Genève), giáp biên giới Pháp. Khoảng 10% dân số nói tiếng Ý và số còn lại khoảng 7% dân số nói tiếng Roman, sống tại miền Nam giáp Ý. Ngôn ngữ: Tiếng Đức (63,7 %); Tiếng Pháp (20,4 %); Tiếng Ý (6,5 %); các ngôn ngữ khác (9,4 %); Tôn giáo: Thiên chúa giáo La mã (42 %); Tin lành (35 %); Đạo Hồi (4 %); Cơ cấu hành chính: 26 bang (Aargau, Appenzell Ausser-Rhoden, Appenzell Inner-Rhoden, Basel-Landschaft, Basel-Stadt, Bern, Fribourg, Geneve, Glarus, Graubunden, Jura, Luzern, Neuchatel, Nidwalden, Obwalden, Sankt Gallen, Schaffhausen, Schwyz, Solothurn, Thurgau, Ticino, Uri, Valais, Vaud, Zug, Zurich); Lãnh đạo chủ chốt: Tổng thống Eveline Widmer-Schlumpf (nhiệm kỳ 2012), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Hansjorg Walter (nhiệm kỳ 2012); Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Liên bang Hans Altherr (nhiệm kỳ 2012); Bộ trưởng Ngoại giao Didier Burkhalter. Đơn vị tiền tệ: Francs; (tỷ giá ngày 16/01/2012 so với USD: 1 Frans ≈ 1,04734 USD) GDP: 330 tỷ USD (2011), tăng 2 % so với năm 2010 GDP/ đầu người: khoảng 44.000 USD (2011) Tỷ lệ thất nghiệp: 3,4% (01/2012) 

II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ:
 - Vào thế kỷ XI, Thụy Sĩ là bộ phận của Đế quốc La Mã. - Năm 1291, ba khu vực lãnh thổ địa phương và một số vùng rừng thuộc vùng Schwyz (thuộc bang Schwyz ngày nay) liên kết với nhau, gia nhập liên minh chống lại Đế quốc Háp-xbuốc. Liên minh chính thức ra đời ngày 1/8/1291 trên cơ sở các Minh ước quân tử, vì thế ngày này được chọn làm ngày quốc khánh của Thụy Sĩ. - Đến năm 1513, Liên minh lớn mạnh với 13 vùng và một số lãnh thổ độc lập. Trong thế kỷ 16 có nhiều biến động xảy ra như: chiến tranh tôn giáo, các thành phố Zurich, Badel, Bern và Schaffhausen chuyển sang theo đạo Tin lành, nhưng Liên minh vẫn tồn tại và được giữ vững. - Trong thời kỳ Cách mạng Pháp, Cộng hòa Hen-ve-tic (Thụy Sĩ ngày nay) được thành lập, nhưng sau đó bị Na-pô-lê-ông giải tán vào năm 1803 và bị biến thành một nước đồng minh của Pháp. - Tại Đại hội Viên năm 1815, quy chế “Trung lập vĩnh viễn” và đường biên giới của Thụy Sĩ được công nhận và tồn tại cho đến ngày nay. - Đầu thế kỷ 19, tình hình chính trị Thụy Sĩ diễn ra căng thẳng, khiến một số vùng rút khỏi Liên bang. Tuy nhiên, nhờ có bản Hiến pháp mang tính thỏa hiệp được ban hành năm 1848, mâu thuẫn giữa chính quyền các tiểu bang và chính quyền trung ương được dung hòa, thể chế liên bang được duy trì cho đến ngày nay. 

III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC:
 Thụy Sĩ theo chế độ cộng hòa với mô hình nhà nước liên bang. Cấu trúc nhà nước liên bang được phân thành ba cấp như sau: chính quyền liên bang (confederation), chính quyền bang (canton) và chính quyền xã (commune). Mọi sửa đổi trong Hiến pháp của liên bang hay của các bang phải được thực hiện thông qua trưng cầu dân ý. 1/ Cơ quan lập pháp: Quốc hội Thụy Sĩ theo chế độ lưỡng viện, gồm Hội đồng Nhà nước (council of states) tương đương Thượng viện và Hội đồng quốc gia (national council) tương đương Hạ viện. - Hội đồng Nhà nước (Thượng viện) là cơ quan đại diện cho 26 bang (canton) tại Liên bang, gồm 46 nghị sỹ được bầu trực tiếp từ các bang theo quy định của từng bang với nhiệm kỳ 3 hoặc 4 năm. Trong số 46 ghế trong Hội đồng Nhà nước, 40 ghế phân cho 20 bang (mỗi bang hai ghế), 6 ghế còn lại phân đều cho 6 phân bang (half-canton). Các phân bang gồm: Obwalden, Nidwalden, Appenzell Innerrrhoden, Appenzell Ausserrhoden, Basel-Landschaft và Basel-Stadt. - Hội đồng Quốc gia (Hạ viện) gồm 200 nghị sỹ được bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo quy định của Luật liên bang, với nhiệm kỳ 4 năm. Số nghị sỹ được bầu từ mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số của bang đó. Mỗi năm Quốc hội họp 4 kỳ, mỗi kỳ kéo dài khoảng 3 tuần. Trong trường hợp cần thiết Quốc hội có thể triệu tập phiên họp bất thường. Cứ vào dịp cuối mỗi năm, Quốc hội bầu Tổng thống cho năm sau. 2/ Cơ quan hành pháp: Cơ quan hành pháp của Thụy Sĩ là Hội đồng Liên bang (federal council) với chức năng như Chính phủ, có nhiệm kỳ 4 năm, gồm 7 thành viên (được Quốc hội bầu chọn trong số các ứng cử viên của 4 đảng chính trị giành số phiếu cao nhất trong bầu cử Quốc hội), đồng thời là bẩy Bộ trưởng phụ trách các lĩnh vực ngoại giao; nội vụ; tư pháp và công an; quốc phòng, bảo vệ dân sự và thể thao; tài chính; kinh tế; môi trường, vận tải, năng lượng và thông tin. Thụy Sĩ không có chức danh tương tự Thủ tướng. Các thành viên của Hội đồng Liên bang sẽ lần lượt làm Tổng thống với nhiệm kỳ 1 năm, bắt đầu từ ngày 1/1 hàng năm. Tổng thống chỉ làm chức năng đại diện Nhà nước về mặt nghi lễ (đón tiếp người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ nước ngoài; chủ trì, dự hội nghị quốc tế...). Theo luật pháp Thụy Sĩ, Hội đồng Liên bang phụ trách chung các vấn đề về đối ngoại, quốc phòng, an ninh của cả liên bang. Tất cả các quyết định đều phải được thông qua 7 thành viên của Hội đồng Liên bang xem xét và chấp thuận. Trường hợp không đạt được sự thống nhất giữa 7 thành viên này, thì các quyết định sẽ phải trình lên Quốc hội xem xét, quyết định. Chính quyền của các bang có thẩm quyền quyết định các vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục ... của bang mình.
 IV. CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ: Từ năm 1959 đến 2003, các đảng Dân chủ xã hội (SPS), Dân chủ tự do (FDP), Dân chủ Thiên chúa giáo (CVP) và Nhân dân (SVP) luôn là 4 đảng mạnh nhất trong Quốc hội và chia nhau 7 ghế trong Chính phủ theo công thức 2-2-2-1 (Công thức thần kỳ). Tại cuộc bầu cử Quốc hội năm 2003, đảng Nhân dân thắng lợi lớn, còn đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CVP) đạt được kết quả thấp nhất trong 4 đảng, phải nhường 1 ghế cho đảng Nhân dân, do đó vị trí trong “công thức thần kỳ” được xác lập lại, cụ thể đảng Nhân dân (2 ghế), đảng Dân chủ xã hội (2 ghế), đảng Dân chủ tự do (2 ghế) và đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (1 ghế). Công thức này tiếp tục được duy trì tại cuộc bầu cử gần đây vào năm 2007. Tại cuộc bầu cử quốc hội năm 2007, Đảng Nhân dân (SVP) giành thắng lợi lớn đạt 29 % phiếu; Đảng Dân chủ xã hội (SPS): 19,5 %; Đảng Dân chủ tự do 15,6 %; Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CVP) 14,6 %; Đảng Xanh 9,6 % và các đảng còn lại (đạt dưới 2 % số ghế trong Hội đồng Quốc gia). Ngày 23/10/2011, Thuỵ Sĩ đã tổ chức bầu cử Quốc hội thường kỳ để bầu 200 hạ nghị sỹ và 46 Thượng nghị sỹ nhiệm kỳ 4 năm 2012 - 2015. Đảng Nhân dân Thụy Sỹ (cực hữu) được 54 ghế (giảm 8 ghế), Đảng XHDC được 46 ghế (tăng 3 ghế), Đảng Tự do Cấp tiến (trung hữu) được 30 ghế (giảm 5 ghế), Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (trung hữu) được 28 ghế (giảm 3 ghế), Đảng Xanh (cánh tả) được 15 ghế (giảm 5 ghế), Đảng Sinh thái Tự do (tách ra từ đảng Xanh) được 12 ghế (tăng 9 ghế), Đảng Dân chủ Bảo thủ (tách ra từ Đảng Nhân dân Thuỵ Sỹ) được 9 ghế và các đảng nhỏ được 6 ghế. 
V. KINH TẾ: Mặc dù là nước không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, địa hình chủ yếu là đồi núi, diện tích nhỏ, dân số ít, nhưng Thụy Sĩ là một trong những nước có nền sản xuất công nghiệp phát triển cao và có mức sống cao nhất thế giới. Cơ cấu các ngành kinh tế của Thụy Sĩ phân chia như sau: dịch vụ chiếm 71 %, công nghiệp 27,7 % và nông nghiệp 1,3 %. Thụy Sĩ nổi tiếng là một trong những trung tâm ngân hàng, bảo hiểm lớn của thế giới. Phần lớn các ngân hàng lớn, các hãng bảo hiểm nổi tiếng tập trung tại thành phố Zurich. Công nghiệp của Thụy Sĩ phát triển ở trình độ cao, tập trung vào các ngành cơ khí chế tạo (tuốc-bin thuỷ điện, đồng hồ tinh xảo), dệt, chế biến thực phẩm, dược, hóa chất, chế biến gỗ. Bơ, sữa và cỏ khô cho gia súc là những sản phẩm nông nghiệp quan trọng. Ngành du lịch và thuế thu từ các tổ chức quốc tế đóng trụ sở tại Thụy Sĩ cũng mang lại cho Thụy Sĩ nguồn thu đáng kể. Khác với các nước eurozone đang chịu khủng hoảng nợ, nền kinh tế Thụy Sĩ trong năm 2011 có nhiều điểm sáng: tăng trưởng kinh tế 2%, lạm phát 0,7 %, thất nghiệp 3,1%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Thụy Sĩ bao gồm thiết bị máy móc, hóa chất, kim khí, đồng hồ... Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của Thụy Sĩ đạt hơn 235,2 tỷ USD. Khách hàng chính của Thụy Sĩ gồm Đức (19,7 %), Mỹ (11,1 %), Ý (8,8 %), Pháp (8,6 %), Anh (4,8 %). Thụy Sĩ nhập khẩu thiết bị máy móc, ô tô, dệt may, các sản phẩm nông nghiệp ..., chủ yếu từ các nước Đức (31,7 %), Ý (10,6 %), Pháp (10 %), Mỹ (6,2 %), Hà Lan (4,7 %), Áo (4,3 %). Tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu năm 2010 là 220,4 tỷ USD. 

VI. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI: 
Thụy Sĩ theo đuổi chính sách đối ngoại trung lập nhằm giữ độc lập và bảo vệ lợi ích dân tộc, tăng cường vị thế trên thế giới. Chính sách đối ngoại trung lập là công cụ quan trọng, xuyên suốt và là nội dung chủ yếu của nền ngoại giao Thụy Sĩ từ 1815 tới nay. Thụy Sĩ nhấn mạnh chính sách đối ngoại phải dựa trên luật pháp. Luật pháp quốc tế là công cụ để bảo vệ quyền lợi các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nhỏ và quan hệ quốc tế cần được tiến hành trên các quy định của luật pháp quốc tế. Do đó, việc tôn trọng pháp luật quốc tế là điểm đặc trưng và nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Thụy Sĩ. Thụy Sĩ không thực hiện chính sách đối ngoại trung lập theo một định chế cứng nhắc mà sử dụng chính sách này như một công cụ thích hợp trong từng thời kỳ để bảo vệ lợi ích quốc gia. Chính phủ Thụy Sĩ cho rằng tuy chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng tình hình chính trị, an ninh thế giới vẫn căng thẳng, mất ổn định, nguy hiểm, chính sách trung lập vẫn là một công cụ thích hợp cho việc thực thi chính sách đối ngoại và an ninh của mình. Thụy Sĩ cam kết không đứng vào bên nào trong các cuộc xung đột theo trách nhiệm và nghĩa vụ luật quốc tế quy định đối với các quốc gia trung lập. Mặc dù là nơi đặt trụ sở lớn thứ hai của Liên Hợp Quốc (sau New York), đến năm 2002, Thụy Sĩ mới gia nhập tổ chức này. Những mục tiêu chủ yếu trong chính sách đối ngoại trung lập của Thụy Sĩ: - Cùng tồn tại hòa bình giữa nhân dân các dân tộc; - Thúc đẩy và tôn trọng nhân quyền; - Phát triển môi trường bền vững; - Đại diện cho lợi ích của doanh nghiệp Thụy Sĩ ở nước ngoài; - Chống đói nghèo trên thế giới. Thụy Sĩ có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới và tham gia vào nhiều Tổ chức quốc tế như: Liên Hợp quốc (UN), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE), Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hội nghị của Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (Interpol), Câu lạc bộ Paris, ASEM… Cho đến nay Thụy Sĩ chưa gia nhập EU, nhưng EU là đối tác quan trọng nhất của Thụy Sĩ cả về chính trị và kinh tế, gắn bó với EU bằng sự gần gũi về địa lý và văn hóa. 60% xuất khẩu của Thụy Sĩ là vào EU và nhập khẩu từ EU chiếm 80% kim ngạch nhập khẩu. Thụy Sĩ đã ký với EU nhiều Hiệp định song phương quan trọng, bao trùm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, thuế quan, an ninh, nông nghiệp, tự do đi lại, thông tin, môi trường... Từ tháng 12/2008, Thụy Sĩ chính thức gia nhập Hiệp ước Schengen (quy định công dân nước ngoài có visa với thời hạn dưới 90 ngày của một nước tham gia Hiệp ước được phép đi lại tự do tới các nước tham gia còn lại), đánh dấu mốc mới trong quá trình hội nhập của Thụy Sĩ vào châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

GIỚI THIỆU QUAN HỆ VIỆT NAM – THỤY SĨ

 I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ: 
Ngày 11/10/1971, Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Liên bang Thụy Sĩ thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ. Tháng 2/1973, Thụy Sĩ mở Đại sứ quán tại Hà Nội và tháng 3/1994 mở thêm Lãnh sự quán tại TP. Hồ Chí Minh. Ngày 3/7/1984, Việt Nam mở Lãnh sự quán tại Giơ-ne-vơ và nâng cấp lên Tổng lãnh sự quán vào ngày 15/12/1994. Ngày 28/1/2000, Việt Nam chính thức khai trương Đại sứ quán tại thủ đô Bern. Trao đổi đoàn cấp cao: Các đoàn cấp cao Thụy Sĩ thăm Việt Nam: Phó Tổng thống kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Flavio Cotti (tháng 11/1997); Tổng thống Arnold Koller dự Hội nghị cấp cao Pháp ngữ lần thứ 7 tại Hà Nội (tháng 11/1997); Chủ tịch Thượng viện René Rhinow (tháng 3/1999); Phó Tổng thống kiêm Bộ trưởng Kinh tế Liên bang Pascal Couchepin (tháng 10/2002); Tổng thống Thụy Sĩ Pascal Couchepin thăm chính thức Việt Nam (tháng 8/2008). Các đoàn cấp cao Việt Nam thăm Thụy Sĩ: Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm dự Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tại Davos (tháng 10/1994); Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm dự WEF tại Davos (tháng 1/1999); Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm dự WEF tại Davos (tháng 2/2001); Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm dự WEF (tháng 4/2002); Phó Thủ tướng Vũ Khoan dự WEF tại Davos (tháng 1/2003); Phó Thủ t­ướng Vũ Khoan dự Hội nghị hợp tác phát triển với chủ đề "Việt Nam - một con rồng mới ở Châu Á” (tháng 8/2003); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 3/2005); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự WEF tại Davos (tháng 1/2007); Phó Chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được (tháng 5/2007); Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa (tháng 6/2007); Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải dự WEF tại Davos (tháng 1/2008); Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn (tháng 9/2008); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân (tháng 2/2009); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự WEF tại Davos (tháng 1/2009); Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (tháng 5/2010); Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân dự WEF tại Davos (tháng 1/2011); Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải thăm Thụy Sĩ (tháng 9/2011). 

II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ: 1. Về thương mại: Việt Nam tiếp tục được hưởng các quy chế ưu đãi về thương mại của Thụy Sĩ, như Quy chế tối huệ quốc (MFN) theo Hiệp định thương mại song phương (1994) và Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) theo quyết định đơn phương của Thụy Sỹ từ năm 1972 dành cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Từ năm 2003 Việt Nam luôn nhập siêu từ Thụy Sĩ với mức ngày càng lớn, trong đó chủ yếu là nhập vàng. Các mặt hàng Việt Nam thường xuất sang Thụy Sĩ là giày dép (chiếm khoảng 25%), hải sản (24,25 %), cà phê, dệt may, sản phẩm túi xách, ô dù và đồ dùng nội thất. Trong số các sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch lớn, chỉ có giày dép, cà phê, hải sản có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước, các mặt hàng còn lại giảm đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Thụy Sĩ tuy đã bắt đầu trải rộng (trên 300 mặt hàng), nhưng kim ngạch vẫn tập trung chủ yếu vào những mặt hàng quen thuộc kể trên. Việt Nam nhập khẩu từ Thụy Sĩ các mặt hàng như kim loại quý, máy móc thiết bị, phụ tùng, hóa chất, tân dược, sản phẩm và nguyên liệu chất dẻo phục vụ cho sản xuất và gia công hàng hóa trong nước. Thụy Sĩ là thị trường cao cấp “khó tính” nên đòi hỏi chất lượng sản phẩm nhập khẩu rất cao. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là nông sản, vào Thụy Sĩ còn phải chịu chế độ cấp phép rất chặt chẽ nhằm đảm bảo yêu cầu về sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là một rào cản thương mại lớn đối với hàng hóa chất lượng vừa và thấp của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Thụy Sĩ những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Thụy Sĩ là 2,49 tỷ USD trong khi kim ngạch nhập khẩu từ Thụy Sĩ vào Việt Nam là 406,58 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Thụy Sĩ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thụy Sĩ năm 2010 đạt 3,263 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt giá trị 2,886 tỷ USD. Theo số liệu báo cáo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch xuất nhập Việt Nam – Thụy Sĩ năm 2011 đạt 2,959 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt giá trị 1,188 tỷ USD. 2. Về đầu tư: Năm 2011, với 86 dự án đang hoạt động có số vốn đăng ký là 1,993 tỷ USD, Thụy Sĩ đứng thứ 19 trong tổng số 93 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Đầu tư của Thụy Sĩ chủ yếu tập trung vào các ngành xây dựng, văn hóa, y tế, giáo dục, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ du lịch. Hiện có khoảng 90 doanh nghiệp Thụy Sĩ đang hoạt động ở Việt Nam, đầu tư của Thụy Sĩ có mặt tại 12 địa phương. Đa số các nhà đầu tư Thụy Sĩ lựa chọn hình thức công ty 100% vốn nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Trong số các tập đoàn lớn của Thụy Sĩ đầu tư tại Việt nam, có thể kể đến Nestlé (Thực phẩm, đồ uống), Novatis/Ciba - Sandoz (Hóa dược), Roche (Dược phẩm), Holcim (Xi măng), ABB (Thiết bị điện, xây dựng trạm biến thế), Sulzer (Cơ khí, thiết bị điện), SGS (Giám định), Escatec (Thiết bị điện tử), Ringier (In ấn), André/ CIE (Thương mại) v.v.. 

III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN: Mặc dù Thụy Sĩ đã quyết định giảm số lượng các nước ưu tiên nhận viện trợ phát triển của Thụy Sĩ từ 17 nước xuống còn 7 nước, Việt Nam vẫn được Thụy Sĩ xác định là nước trọng tâm được ưu tiên nhận viện trợ phát triển trong Khu vực sông Mê Kông. Viện trợ phát triển của Thụy Sĩ dành cho Việt Nam được cung cấp từ hai nguồn chính: - Cơ quan Hợp tác Phát triển (SDC) thuộc Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ phụ trách và cấp vốn cho các dự án sử dụng viện trợ không hoàn lại thuộc các lĩnh vực bảo vệ môi trường, cải cách hành chính, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, giáo dục ... Cho đến nay tổng giá trị tài trợ của SDC khoảng 163,46 triệu CHF tương đương khoảng 137,3 triệu USD[1]. Các dự án tiêu biểu gồm: Dự án Quản lý chất thải nguy hại tại Nam Định giai đoạn 2 từ 2007 – 2009 (1,25 triệu USD); Chương trình không khí sạch Việt Nam - Thụy Sĩ từ 2005 – 2008 (3,5 triệu CHF); Dự án sản xuất gạch bền vững từ 2005 – 2008 (1,6 triệu CHF); Dự án cải cách hành chính tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2 từ 2007 – 2010 (3,2 triệu CHF); Dự án quản lý chất thải PCB từ 2007 – 2008 (0,6 triệu USD); Dự án thiết lập hệ thống đánh giá và giám sát phục vụ công tác quản lý ngành nông nghiệp – giai đoạn I từ 2006 – 2008 (1 triệu USD); Dự án hỗ trợ kinh doanh nông sản vùng cao từ 2008 – 2009 (0,5 triệu USD); Chương trình cải thiện cung cấp dịch vụ công trong nông nghiệp và phát triển nông thôn từ 2008 – 2010 (6,56 triệu USD) v.v.. Các dự án song phương hiện đang thực hiện gồm: (1) Giảm nghèo thông qua phát triển chăn nuôi-giai đoạn 3. Thời gian thực hiện 2011-2013. Tổng giá trị viện trợ 1,2 triệu EURO. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là chủ dự án; (2) Chương trình cải thiện cung cấp dịch vụ công trong nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình. Thời gian thực hiện 2011 – 2015. Tổng giá trị viện trợ là 5,47 triệu USD; (3) Chương trình cải thiện cung cấp dịch vụ công trong nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng. Thời gian thực hiện 2011 – 2015. Tổng giá trị viện trợ là 4,2 triệu USD. - Cục Hợp tác kinh tế (SECO) thuộc Bộ Kinh tế Liên bang chủ yếu quản lý các dự án cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng sử dụng nguồn vốn hỗn hợp (một nửa là vốn vay của các ngân hàng Thụy Sĩ và một nửa là viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Thụy Sĩ) và một số dự án kỹ thuật song phương và đa phương (thông qua các tổ chức Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc... ). Tổng giá trị tài trợ của SECO đến nay đạt khoảng 75,29 triệu CHF tương đương khoảng 63,3 triệu USD[2]. Các dự án sử dụng vốn hỗn hợp do SECO quản lý với tổng vốn 32 triệu CHF, gồm: Nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu một số ga đường sắt Vinh – Sài Gòn (16 triệu CHF); Nâng cấp hệ thống nước thải và xử lý nước thải cho thị xã Bà Rịa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (10 triệu CHF); Nâng cấp bệnh viện huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá và Bệnh viện huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn (6 triệu CHF). Các dự án sử dụng vốn không hoàn lại do SECO quản lý gồm: Xây dựng năng lực thể chế và hỗ trợ kỹ thuật cho ngành ngân hàng từ 2007 – 2009 (4,86 triệu CHF); Dự án về sở hữu trí tuệ từ 2007 – 2009 (1,3 triệu CHF); Dự án tăng cường năng lực cho cơ quan cạnh tranh của Việt Nam thuộc Bộ Thương mại từ 2007 – 2009 (0,9 triệu CHF) v.v.. Cho đến nay tổng giá trị viện trợ phát triển Thụy Sĩ dành cho Việt Nam vào khoảng 360 triệu USD, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực môi trường, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, phát triển đô thị, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn. Năm 2011, Thụy Sĩ cam kết viện trợ cho Việt Nam 28,9 triệu USD, tăng 34,86 % so với năm 2010. Hiện nay, cơ quan hợp tác phát triển của Thụy Sĩ đang xây dựng chiến lược viện trợ giai đoạn 2013 – 2016 theo đó dự kiến sẽ tiếp tục viện trợ cho Việt Nam với mức độ như hiện nay đến năm 2016. Năm 2012, Thụy Sĩ cam kết viện trợ cho Việt Nam 21,84 triệu USD, bằng 76% so với năm 2011. (Cam kết ODA tại Hội nghị CG năm 2011) Nhà tài trợ 2009 2010 2011 2012 So sánh 2012/2011 (%) Thụy Sĩ 21,5 21,43 28,9 21,84 -24,43% Đơn vị: USD Nhìn chung, các dự án ODA của Thụy Sĩ dành cho Việt Nam được đánh giá hiệu quả, thiết thực, đóng góp tích cực vào công tác xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, cải thiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam.

IV. GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO, VĂN HÓA – DU LỊCH, KHOA HỌC – KỸ THUẬT: Về giáo dục - đào tạo: Thụy Sĩ nổi tiếng là trung tâm đào tạo có uy tín trong lĩnh vực ngân hàng, du lịch, bảo hiểm và công nghệ cao. Hiện nay có khoảng 150 thực tập sinh, sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam đang theo học tại các trường đại học Thụy Sĩ. Thụy Sĩ tích cực giúp đỡ Việt Nam thông qua các dự án hỗ trợ giáo dục về môi trường, quản lý và các dự án đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ các chuyên ngành tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh. Chương trình hợp tác liên kết đào tạo thạc sỹ tài chính ngân hàng đầu tiên giữa Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh và Đại học Khoa học ứng dụng Tây Bắc Thụy Sĩ (bắt đầu từ 2007) đã gặt hái những thành công bước đầu. Các thỏa thuận đào tạo tiến sỹ đạt được giữa Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh và Viện công nghệ Liên bang Thụy Sĩ Lausanne, giữa Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Geneva trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Pascal Couchepin vào tháng 8/2008 và chuyến thăm Thụy Sĩ của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân vào tháng 2/2009 đang tạo đà quan trọng cho sự phát triển quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước trong thời gian tới. Hai nước đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục đào tạo trong chuyến thăm Thụy Sĩ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2010. Về văn hóa - du lịch: Hai nước đã có nhiều hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa tại mỗi nước, như tổ chức hoà nhạc hữu nghị Việt Nam - Thụy Sĩ vào tháng 3/2007, mời nghệ sỹ cello của Thụy Sĩ sang giảng dạy và biểu diễn tại Việt Nam, phối hợp với nước sở tại tổ chức một số hoạt động giao lưu, giới thiệu văn hóa và biểu diễn văn nghệ truyền thống Việt Nam tại Thụy Sĩ. Số lượng khách du lịch Thụy Sĩ vào Việt Nam tương đối ổn định (2009: 19.000khách; 2010: 25.266 khách; 2011: khoảng 20.000 khách). Về khoa học - kỹ thuật: Hai nước đã ký Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, triển khai Chương trình hợp tác đặc biệt Việt Nam - Thụy Sĩ về sở hữu trí tuệ (SPC) và Dự án hợp tác về sở hữu trí tuệ (SVIP). V. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM TẠI THỤY SĨ: Theo số liệu của Cơ quan Di trú Liên bang Thụy Sĩ, số lượng Việt kiều hiện sinh sống tại Thụy Sĩ khoảng 8.000 người, có mặt ở hầu hết các bang, nhưng tập trung đông ở các thành phố lớn như Geneva, Zurich, Bern, Basel, Lausanne, Luzren và Fribourg. Nhìn chung, cộng đồng người Việt hoà nhập tốt với xã hội Thụy Sĩ, chăm chỉ và chấp hành tốt luật pháp, được chính quyền sở tại đánh giá cao. VI. CÁC HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC: Hiệp định hợp tác bưu điện (1975) Hiệp định hợp tác vận tải hàng không (1979) Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1992) Hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại (1993) Hiệp định viện trợ tài chính hỗn hợp thứ I (1993) Hiệp định tránh đánh thuế song trùng và ngăn ngừa trốn lậu thuế (1996) Hiệp định bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (1999) Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi (2000); Hiệp định khung về hợp tác phát triển (2002) Hiệp định viện trợ tài chính hỗn hợp thứ II (2002) Hiệp định nhận trở lại người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp (2006) Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao (2009) Hiệp định về việc cho phép thân nhân cán bộ cơ quan đại diện được phép lao động có thu nhập tại nước sở tại (2010)./.
 Nguồn : http://www.mofahcm.gov.vn