- Diện tích : khoảng 7,7 triệu km2
- Dân số : khoảng 20,6 triệu người (tính đến tháng 11/2006)
- Thủ đô : Canberra
- Đơn vị tiền tệ : Đôla Ô-xtrây-lia (Australian Dollar-AUD)
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ Ô-XTRÂY-LIA VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
Ô-XTRÂY-LIA
(THE COMMONWEALTH OF AUSTRALIA)
I. Khái quát chung:
- Diện tích : khoảng 7,7 triệu km2
- Dân số : khoảng 20,6 triệu người (tính đến tháng 11/2006)
- Thủ đô : Canberra
- Đơn vị tiền tệ : Đôla Ô-xtrây-lia (Australian Dollar-AUD)
- Ngày Quốc khánh : 26/01 (Australian Day)
- Địa lý: Lục địa Ô-xtrây-lia nằm ở bán cầu Nam, được bao bọc bởi Nam Thái Bình Dương ở phía Đông, Ấn Độ Dương ở phía Tây, Biển A-ra-phu-ra ở phía Bắc và Nam Đại Dương ở phía Nam. Ô-xtrây-lia có địa hình đa dạng; là một trong những lục địa có khí hậu khô nhất thế giới, rất giàu tài nguyên khoáng sản như vàng, bôxít, sắt, kẽm, đồng, kim cương, than, uranium, dầu khí và thiếc.
- Dân cư : người gốc Âu (92%), Á (6%), bản địa (2%)
- Ngôn ngữ chính : tiếng Anh
- Người đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng Anh Ê-li-da-bét II, được đại diện bởi Toàn quyền Ô-xtrây-lia đương nhiệm là ông Michael Jeffery. Thủ tướng hiện nay là John Howard (từ 1996 đến nay).
II/ Lịch sử phát triển:
- Ô-xtrây-lia có nền văn hoá bản địa lâu đời, độc đáo. Những cư dân đầu tiên đến sinh sống tại lục địa này từ cách đây hơn 40.000 năm.
- Năm 1770, Thuyền trưởng James Cook của Anh là người châu Âu đầu tiên tới khám phá vùng bờ biển phía Đông của lục địa Ô-xtrâylia.
- Ngày 26/01/1788, thuyền trưởng Arthur Philip đưa 750 người từ Anh đi đày sang Ô-xtrây-lia, mở đầu thời đại di cư của người châu Âu đến Ô-xtrây-lia. Sự kiện các mỏ vàng được tìm thấy vào năm 1851 đã mở đầu thời kỳ tăng mạnh số lượng người nhập cư, kèm theo đó là sự phát triển kinh tế, thương mại tại vùng đất này.
- Ô-xtrây-lia chính thức giành được độc lập từ Vương quốc Anh từ ngày 01/01/1901.
III/ Thể chế chính trị:
- Ô-xtrây-lia theo chế độ quân chủ lập hiến, là quốc gia độc lập thuộc khối Liên hiệp Anh. Nữ hoàng Anh Elizabeth II là người đứng đầu Nhà nước. Đại diện của Nữ hoàng trên toàn lãnh thổ Ô-xtrây-lia là Toàn quyền (do Nữ hoàng chỉ định) và tại mỗi bang là Thống đốc. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, thông qua bầu cử, có nhiệm kỳ 03 năm. Thủ tướng chỉ định các Bộ trưởng trong nội các. Hệ thống chính trị được xây dựng theo cơ cấu liên bang - tiểu bang.
- Cơ cấu chính quyền: Toàn quyền (đứng đầu Nhà nước), Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp): có 2 cấp liên bang và tiểu bang. Chính phủ mỗi bang do một Thủ hiến đứng đầu.
- Quốc hội liên bang là cơ quan lập pháp cao nhất, gồm 2 viện: Hạ viện và Thượng viện. Quốc hội mỗi bang cũng gồm 2 viện.
Hạ viện gồm 150 Hạ nghị sĩ đại diện cho các tiểu bang, được bầu theo hệ thống bầu phiếu phổ thông lựa chọn ưu tiên, nhiệm kỳ 3 năm.
Thượng viện gồm 76 Thượng nghị sĩ được bầu theo hình thức đại diện tỷ lệ. Mỗi bang cử 12 Thượng nghị sỹ (nhiệm kỳ 6 năm); Lãnh thổ Thủ đô và Lãnh thổ Bắc Ô-xtrây-lia có 2 Thượng nghị sỹ/lãnh thổ (nhiệm kỳ 3 năm).
- Các đảng chính trị chính: Tự do, Quốc gia, Công Đảng, Dân chủ, Đảng Xanh... Chính phủ đương nhiệm là liên minh giữa 2 đảng Tự do và Quốc gia. Công Đảng là đảng đối lập. Tổng tuyển cử tháng 10/2004, chính phủ liên minh Tự do-Quốc gia của Thủ tướng Giôn Hô-uốt tiếp tục thắng cử nhiệm kỳ thứ 4 liên tiếp (từ năm 1996 đến nay).
IV/ Kinh tế - xã hội:
- Ô-xtrây-lia có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Thời kỳ đầu lập quốc, chủ yếu dựa vào xuất khẩu lông thú. Việc phát hiện ra vàng (năm 1851) và tiếp theo là sự ra đời của ngành khai thác mỏ đã dần mở ra những cơ hội phát triển mới cho kinh tế Ô-xtrây-lia. Trong những năm 1980, Ô-xtrây-lia đẩy mạnh đổi mới và hiện đại hoá nền kinh tế; tiếp đó thực hiện các cải cách kinh tế nhằm chuyển nền kinh tế từ hướng nội là chủ yếu sang nền kinh tế theo hướng xuất khẩu và có tính cạnh tranh quốc tế cao.
- Ô-xtrây-lia có nền kinh tế công, nông nghiệp phát triển, trong đó: Dịch vụ 70%, Công nghiệp 26%, Nông nghiệp 4%. Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu: bột mỳ, mía đường, hoa quả; gia súc, gia cầm. Các ngành công nghiệp chủ yếu: khai mỏ, thiết bị công nghiệp và giao thông vận tải, chế biến thực phẩm, hóa chất và thép.
- Tổng sản phẩm quốc nội-GDP năm 2005đạt 633,5 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 32.000 USD. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2006 đạt 3,4% (năm 2005 là 3%).
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: than đá, vàng, len, thép, dầu thô, bột mỳ, nhôm, thịt, máy móc và thiết bị vận tải. Năm 2006, tổng giá trị xuất khẩu đạt 196 tỷ AUD.
- Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc, thiết bị, máy tính và thiết bị văn phòng, dầu thô, thiết bị viễn thông. Năm 2006, tổng giá trị hàng nhập khẩu đạt 211 tỷ AUD.
V/ Đối ngoại:
Ô-xtrây-lia ra đời năm 1901 nhưng trong vài thập kỷ đầu, hoạt động đối ngoại, an ninh và quốc phòng của Ô-xtrây-lia vẫn phụ thuộc vào Anh. Sau đó, chính sách đối ngoại của Ô-xtrây-lia dần trở nên độc lập hơn. Các đạo luật được thông qua năm 1942 và năm 1986 đã mang lại cho Ô-xtrây-lia quyền chủ quyền tuyệt đối trong mọi lĩnh vực. Từ những năm 1980, tuy vẫn thân phương Tây, nhưng Ô-xtrây-lia chủ trương theo đuổi chính sách hoà nhập với Châu Á. Thúc đẩy quan hệ kinh tế, tự do hoá thương mại với các nước là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại nổi bật của Ô-xtrây-lia thời gian gần đây. Đến nay, Ô-xtrây-lia đã ký FTA với Niu Di-lân, Xinh-ga-po, Thái Lan, Mỹ, và đang triển khai đàm phán để ký FTA với ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Ma-lai-xia, Các Tiểu Vương quốc Arập thống nhất-UAE …trong tương lai gần.
Hiện tại, Ô-xtrây-lia là thành viên của hầu hết các tổ chức/diễn đàn/cơ chế hợp tác quốc tế quan trọng, gồm APEC, ARF, ASEAN (nước đối thoại), EAS, FAO, IAEA, ICC, ICAO, IMF, Interpol, OECD, Liên Hiệp Quốc, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, WHO, WTO…
VI. Quan hệ Việt Nam – Ô-xtrây-lia:
Chính trị:
Ngày 26/02/1973, Việt Nam và Ô-xtrây-lia thiết lập quan hệ ngoại giao và lập Đại sứ quán tại mỗi nước. Quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ và mở rộng trên tất cả các lĩnh vực. Kể từ 1991, quan hệ giữa hai nước đã được mở ra hướng phát triển mới cùng với việc Hiệp định Hoà bình Pa-ri về vấn đề Cam-pu-chia được ký kết. Năm 2003, hai nước đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú để kỷ niệm trọng thể 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (26/2/1973 – 26/2/2003).
Hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, góp phần quan trọng trong việc tăng cường và mở rộng quan hệ song phương giữa hai nước. Phía Việt Nam thăm Ô-xtrây-lia có: Thủ tướng Võ Văn Kiệt (5/1993), Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng 7-8/1995); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (3/1998); Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-4/1999 và 5-7/5/2005.
Phía Ô-xtrây-lia thăm Việt Nam có: Thủ tướng Paul Keating (4/1994); Toàn quyền Bill Hayden (tháng 4/1995), Thủ tướng Thủ tướng Giôn Hô-uốt kết hợp dự Hội nghị Cấp cao APEC (11/2006). Ngoài ra, Lãnh đạo một số tiểu bang (Queensland, New South Wales, Nam Australia và Victoria) cũng đã thăm ta.
Hiện nay, quan hệ chính trị giữa hai nước tiếp tục phát triển tốt đẹp. Trong chuyến thăm chính thức Ô-xtrây-lia từ 4-7/5/2005 của Thủ tướng Phan Văn Khải, hai Thủ tướng đã ra Tuyên bố Báo chí chung, khẳng định sự lớn mạnh và nhất trí tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2006, Thủ tướng John Horwad cũng đánh giá cao quan hệ phát triển rất tốt đẹp và ca ngợi ta tổ chức thành công APEC.
Kinh tế:
- Kim ngạch thương mại giữa hai nước luôn tăng đều và khá cao, từ 32,3 triệu USD (1990) lên 3,06 tỷ USD (năm 2005) trong đó Việt Nam liên tục xuất siêu (năm 2005, Việt Nam xuất 2,57 tỷ USD và nhập 498,5 triệu USD). Năm 2006, tổng kim ngạch thương mại 2 bên đạt trên 4,2 tỷ USD (trong đó ta xuất 3,2 tỷ và nhập 1 tỉ USD). Hiện nay Ô-xtrây-lia là đối tác thương mại lớn thứ 7, thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Ô-xtrây-lia gồm: dầu thô, thuỷ sản, hạt điều, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, cà phê, hàng may mặc, giày dép, gạo, cao su...Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ Ô-xtrây-lia ngũ cốc, thuốc, tàu biển, máy chế biến thực phẩm, thiết bị điện, kim loại, sắt thép, thực phẩm, hoá chất...
- Về đầu tư, Ô-xtrây-lia là một trong các nước đầu tư khá cao và có hiệu quả tại Việt Nam. Tính đến 1/2007, Ô-xtrây-lia đầu tư tại Việt Nam 123 dự án với tổng vốn gần 700 triệu USD (vốn thực hiện đạt 347,6 triệu USD), chủ yếu trong các lĩnh vực chế biến, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn, giáo dục đào tạo…, tại một số thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài và liên doanh.
- Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Tháng 10/1991 Ô-xtrây-lia nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam. Từ 1994, viện trợ của Ô-xtrây-lia được thực hiện với quy mô lớn, tổng số viện trợ các giai đoạn 1994-1998, 1998-2002 là 436 triệu đôla. Từ 2002, chính phủ Ô-xtrây-lia phân bổ ngân sách viện trợ định kỳ hàng năm. Chiến lược hợp tác phát triển Việt Nam - Ô-xtrây-lia 2003-2007 đã được Việt Nam và Ô-xtrây-lia thông qua, theo đó các dự án viện trợ theo: (1) Về lĩnh vực: tập trung về nông nghiệp, nông thôn, y tế, quản lý Nhà nước, nguồn nhân lực, hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. (2) Về ưu tiên địa lý: tập trung cho vùng đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung.
Cụ thể, mức viện trợ cho Việt Nam năm tài khóa 2003-2004 là 72,1 triệu AUD; 2004-2005 là 73,7 triệu AUD; 2005-2006 tăng lên 77,3 triệu AUD. Theo ngân sách liên bang tài khóa 2006-2007, mức viện trợ dành cho Việt Nam là 81,5 triệu AUD (tăng 4,2 triệu AUD so với năm tài khoá trước).
- Trong khuôn khổ APEC, hai nước có quan hệ hợp tác chặt chẽ, nhất là phối hợp để Việt Nam chủ trì tổ chức các hội nghị của APEC 2006. Về WTO, hai bên đã ký văn bản chính thức kết thúc đàm phán ngày 02/3/2006.
Các Hiệp định đã ký:
- Hiệp định về Bưu chính (10/1979)
- Hiệp định Thương mại và Hợp tác kinh tế (6/1990)
- Hiệp định Thúc đẩy và Bảo hộ Đầu tư lẫn nhau (3/1991)
- Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần (4/1992 và được bổ sung, sửa đổi tháng 11/1996)
- Hiệp định về Dịch vụ Hàng không (7/1995)
- Hiệp định Lãnh sự (7/2003)
- Một số Thoả thuận Hợp tác quan trọng: Hợp tác Phát triển (5/1993), Trợ giúp Pháp luật (2/1997), Hợp tác Khoa học và Công nghệ (9/1992), MOU về Hợp tác trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ (9/1995), Hợp tác về Môi trường (1997), Hợp tác Thể thao (1999), Hợp tác Giáo dục (4/1999), Tuyên bố chung về việc Hợp tác Đấu tranh chống Nhập cư bất hợp pháp và buôn bán phụ nữ, trẻ em (9/2000), Bản Ghi nhớ về việc nhận trở lại công dân Việt Nam bị trục xuất do vi phạm pháp luật Ô-xtrây-lia (6/2001), Hợp tác về vấn đề nhập cư (2001), Hợp tác về các Dịch vụ Xã hội (2002). Hợp tác giao thông vận tải (3/2007).
Nguồn: (http://www.mofa.gov.vn/vi/)